Dự thảo Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) sửa đổi, dự kiến được Quốc hội khóa XV xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 9, đang nhận được nhiều ý kiến của Đại biểu Quốc hội, đặc biệt là đề xuất bổ sung nước giải khát có đường vào danh mục đối tượng chịu thuế TTĐB với thuế suất 10%. Nhiều Đại biểu Quốc hội bày tỏ sự băn khoăn về cơ sở khoa học, tính toàn diện và tác động của chính sách này, liệu mục tiêu là bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ngăn ngừa và giảm thiểu tình trạng thừa cân, béo phì có đạt được vì chưa xác định rõ nguyên nhân gây thừa cân, béo phì...
Cơ sở khoa học chưa rõ ràng và đánh giá toàn diện còn thiếu sót
Một trong những vấn đề được nhiều đại biểu nhấn mạnh là thiếu cơ sở khoa học vững chắc để khẳng định nước giải khát có đường là nguyên nhân chính gây ra thừa cân, béo phì và tiểu đường.
Theo thống kê của Bộ Y tế, riêng năm 2020, tỷ lệ thừa cân béo phì khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.; Theo kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc 2019 – 2020 của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ trẻ em thừa cân, béo phì tăng gấp 2,2 lần, từ 8,5% năm 2010 lên thành 19,0% năm 2020. Mặc dù Việt Nam có tốc độ tăng nhanh về số người béo phì trong thời gian gần đây nhưng xét về tỷ lệ dân số thì số người thừa cân béo phì ở Việt Nam vẫn thấp nhất so với khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
Theo số liệu từ Liên đoàn Béo phì thế giới năm 2022, tỷ lệ thừa cân béo phì ở người trưởng thành tại Việt Nam đứng thứ 200 và trẻ em đứng thứ 137. Tại khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ thừa cân béo phì ở người trưởng thành tại Việt Nam đứng thứ 11 và trẻ em đứng thứ 8. Số liệu này cho thấy, tỷ lệ thừa cân béo phì tại Việt Nam còn thấp, tỷ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi còn cao.

Tích cực tập luyện thể thao để tiêu hao năng lượng, nâng cao sức khỏe
Theo các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế, thừa cân béo phì do nhiều nguyên nhân khác nhau như chế độ dinh dưỡng không hợp lý (không chỉ do tiêu thụ thực phẩm giàu đường mà còn do thực phẩm giàu chất béo, chất đạm, muối), thiếu hoạt động thể chất, và các yếu tố di truyền, nội tiết. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa thừa cân béo phì với thời gian tĩnh tại, tuổi tác, trình độ học vấn, môi trường sinh sống, làm việc và thời gian ngủ.
Đáng chú ý, các khảo sát thực tiễn đối với lứa tuổi học đường tại Việt Nam cho thấy không có mối tương quan giữa việc tăng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt với tăng tỷ lệ thừa cân béo phì. Báo cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2018 chỉ ra rằng tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh thành thị cao hơn nông thôn (41,9% so với 17,8%), nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt thường xuyên của trẻ em thành thị lại thấp hơn nông thôn (16,1% so với 21,6%). Thay vào đó, ít vận động thể lực và thời gian tĩnh tại nhiều lại đóng góp đáng kể vào tình trạng gia tăng thừa cân béo phì ở lứa tuổi học đường.
Thêm vào đó, nước giải khát có đường không phải là nguồn cung cấp đường và calo duy nhất và cao nhất trong chế độ ăn uống của người Việt. Lượng calo từ nước giải khát có đường chỉ khoảng 44 kcal/100g, thấp nhất trong các loại thực phẩm chứa đường. Trong khi đó, các thực phẩm khác như ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%) và các thực phẩm khác (22%) đóng góp phần lớn năng lượng vào cơ thể.
Theo kết quả khảo sát từ Viện Dinh dưỡng Quốc gia nêu trên, tỷ lệ học sinh tiêu thụ các sản phẩm có đường khác như bánh kẹo, kem, chè chiếm 51,1% ở khu vực thành thị và 56,4% ở khu vực nông thôn, cao hơn rất nhiều so với nước ngọt (21,6% ở khu vực nông thôn và 16,1% ở khu vực thành thị) nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%).
Cần đảm bảo tính công bằng của chính sách
Nhiều Đại biểu Quốc hội và chuyên gia lo ngại về tác động tiêu cực của chính sách áp thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường chưa đảm bảo đạt được mục tiêu về “ngăn ngừa và giảm thiểu tình trạng thừa cân béo phì”, chưa hiệu quả về điều tiết hành vi tiêu dùng; đồng thời chưa đảm bảo nguyên tắc công bằng của chính sách thuế.

Đại biểu Phạm Văn Hòa – ĐBQH tỉnh Đồng Tháp
Một trong những đại biểu có nhiều ý kiến đóng góp ý đối với Dự thảo Luật Thuế TTĐB tại nhiều diễn đàn, Đại biểu Phạm Văn Hòa – ĐBQH tỉnh Đồng Tháp quan ngại việc chưa có đủ cơ sở khoa học để chứng minh nước giải khát có đường gây béo phì vì bệnh này có nhiều nguyên nhân khác nhau cũng như việc đường có ở nhiều các sản phẩm khác (ví dụ như trà sữa, các đồ uống có đường pha sẵn khác được bán tràn lan trên đường phố v.v) chứ không riêng gì nước giải khát có đường. Đại biểu đề nghị xem xét sao cho phù hợp, đảm bảo tính công bằng với các sản phẩm có đường khác và đồng thời cân nhắc nên áp dụng 5% bắt đầu từ năm 2028 trở đi.
Đại biểu Tạ Văn Hạ - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam, mặc dù đại biểu đồng tình với sự cần thiết phải áp thuế nhưng phân tích thêm dưới góc độ quyền của trẻ em đối với việc tiếp cận các sản phẩm có đường, ở Việt Nam đã có khuyến cáo đến năm 2030 có 2 triệu trẻ em béo phì nhưng cũng cần lưu ý Việt Nam còn hơn 20 triệu trẻ em, đặc biệt trẻ em vùng sâu, vùng xa có quyền tiếp cận đến những đồ uống có đường này hay không? Hiện nay, tỷ lệ là bao nhiêu. Đại biểu cho biết, trong quan điểm của Đại biểu Quốc hội và tất cả chúng ta đều phải khẳng định rằng những vấn đề liên quan đến sức khỏe con người, đặc biệt đối với trẻ em thì cần phải xem xét kỹ và có những quy định để hạn chế nhưng cần phải được đánh giá tác động thật kỹ lưỡng. Đại biểu Tạ Văn Hạ lo ngại, công tác đánh giá tác động vẫn chưa được kỹ, cho nên Đại biểu Quốc hội khi đưa ra bàn bạc chỉ có thông tin một chiều. Đại biểu Quốc hội phải phản biện những chính sách, phải nhìn tổng thể cả người tiêu dùng, nhà sản xuất cho đến Nhà nước.
Đại biểu Lê Thị Song An – Đoàn ĐBQH tỉnh Long An cho rằng, hiệu quả thực tế của việc áp thuế này đối với nước giải khát có đường trong việc cải thiện sức khỏe cộng đồng hiện chưa được chứng minh một cách toàn diện, có thể thiếu công bằng khi chỉ áp dụng với nhóm sản phẩm đồ uống đóng chai, trong khi các loại đồ uống pha chế tại chỗ như trà sữa, cà phê sữa, nước mía, trà chanh, v.v. những nước uống ở lề đường thì vốn cũng chứa lượng đường đáng kể lại khó có khả năng kiểm soát và đánh thuế do không thể xác định chính xác hàm lượng đường. Điều này gây bất bình đẳng và hiệu quả trong thực thi chính sách, đồng thời có thể gây ra những bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt tôi quan tâm là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Kinh nghiệm quốc tế và lộ trình phù hợp
Mức tiêu thụ nước giải khát ở Việt Nam hiện không cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Ví dụ, mức tiêu thụ bình quân đầu người ở châu Âu là 243,9 lít/người/năm, gấp gần 4,8 lần so với Việt Nam.

Cần cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình khi áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng mới - nước giải khát có đường (Ảnh minh họa)
Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, việc áp thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường không phải lúc nào cũng hiệu quả trong việc ngăn ngừa và giảm thừa cân béo phì, thậm chí có thể gây ra tác động không mong muốn hoặc phản tác dụng. Một số quốc gia như Chile, Bỉ và Mexico, sau khi áp dụng thuế, tỷ lệ béo phì vẫn tăng. Pháp cũng chứng kiến lượng tiêu thụ nước ngọt chỉ giảm nhẹ dù giá tăng do thuế. Đan Mạch và Na Uy thậm chí đã bãi bỏ thuế này nhằm tạo việc làm và hỗ trợ kinh tế địa phương. Ngược lại, Nhật Bản không áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát nhưng có tỷ lệ thừa cân, béo phì thấp nhất khu vực và trên thế giới nhờ tập trung vào chính sách giáo dục dinh dưỡng và tăng cường vận động.
Trước những băn khoăn về cơ sở khoa học, tính công bằng và kinh nghiệm quốc tế, nhiều Đại biểu Quốc hội đã kiến nghị cần cân nhắc kỹ lưỡng và có lộ trình áp thuế phù hợp đối với mặt hàng mới này. Đại biểu Cầm Thị Mẫn (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa) đề nghị lộ trình áp thuế suất 5% từ 2027, 8% từ 2028, và 10% từ 2029. Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung (Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình) kiến nghị lùi thời điểm áp dụng thuế đến năm 2028, với lộ trình thuế suất từ 3%-7% rồi đến 10%, và xem xét áp dụng mức thuế khác nhau tùy hàm lượng đường để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công thức giảm đường. Các chuyên gia cũng đề xuất lộ trình áp thuế suất 5% từ 2028, 8% từ 2029 và 10% từ 2030.
Trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực kích cầu tiêu dùng nội địa và hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, việc áp thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường cần được xem xét thận trọng để tránh tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp và ảnh hưởng đến sức mua của người dân.
Kim Anh
https://tytphuongtansonnhi.medinet.gov.vn/cham-soc-suc-khoe-tre-em/ty-le-tre-em-viet-nam-thua-can-beo-phi-tang-hon-gap-doi-chi-trong-10-nam-cmobile11059-86997.aspx#:~:text=Theo%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%99,t%E1%BA%A1i%20H%C3%A0%20N%E1%BB%99i%20v%C6%B0%E1%BB%A3t%2041%25.
-Báo cáo An ninh lương thực ASEAN: https://asean.org/wp-content/uploads/2022/04/Digital_ASEAN_FNSR_Volume2_22-8-2022_FINAL.pdf