
Quang cảnh Hội thảo
Hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia kinh tế có uy tín, đại diện các cơ quan, hiệp hội, doanh nghiệp. Tại Hội thảo, bà Trịnh Thị Hương - Phó cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể (Bộ Tài chính) và TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng ban Quốc tế và Chính sách hội nhập đã trình bày báo cáo “Từ nghị quyết đến hành động, đưa chính sách phát triển kinh tế tư nhân vào cuộc sống” và báo cáo 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500 - Báo cáo 2025). Hai báo cáo đã cung cấp bức tranh toàn cảnh khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam về quy mô, vai trò, động lực phát triển cũng như các chính sách đã được hoàn thiện để thúc đẩy khu vực này trở thành một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Đặc biệt là phiên thảo luận bàn tròn về giải pháp phát triển doanh nghiệp tư nhân lớn với sự tham gia đã mang đến góc nhìn thẳng thắn và cởi mở. Đó là các chuyên gia như ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ông Nguyễn Đình Cung - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, bà Bùi Kim Thủy - Phó Chủ tịch President Club, Thành viên Hội đồng cố vấn Harvad - Asia Pacific, ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển châu Á (ACD) tại Việt Nam... Điều hành dẫn dắt phiên thảo luận là ông Nguyễn Vinh Quang - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) và ông Lewe Paul - Trưởng đại diện KAS tại Việt Nam.

Các đại biểu tham gia Hội thảo
Sau gần 40 năm đổi mới, ở khu vực kinh tế tư nhân tại nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng đầy bản lĩnh, không ngừng lớn mạnh, trở lạnh động lực hàng đầu của nền kinh tế. Tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng đóng góp quan trọng vào GDP, ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm, đóng góp quan trọng vào công tác an sinh xã hội, phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân là có nhiều doanh nghiệp lớn nhưng chưa đủ mạnh, đông nhưng chưa tinh, nhiều doanh nghiệp chưa đạt tầm khu vực về năng lực công nghệ, về quản trị điều hành và thương hiệu, ít doanh nghiệp đủ điều kiện vươn Go Global ra toàn cầu. Thách thức hiện nay không chỉ là vốn, công nghệ, môi trường kinh doanh mà quan trọng hơn là tư duy phát triển, dám mơ lớn, vươn ra biển lớn, khẳng định thương hiệu Việt trên bản đồ thế giới.

TS. Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính phát biểu tại Hội thảo
Hội thảo cũng đưa ra nhiều giải pháp về cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, khung hỗ trợ pháp lý cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, phát triển vốn, tài chính để doanh nghiệp có thể huy động nguồn lực dài hạn, chi phí hợp lý, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, tăng trưởng xanh, chuyển đổi số. Đặc biệt là thay đổi về tư duy của nhà nước trong việc kiến tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, hội nhập, Go Global, trở thành những doanh nghiệp lớn có tầm ảnh hưởng chiến lược, hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực then chốt, các tập đoàn tư nhân có khả năng cạnh tranh quốc tế. Các chuyên gia cũng thẳng thắn chỉ những khó khăn mà các doanh nghiệp tư nhân khi hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam gặp phải, đồng thời khẳng định rằng, đất nước đã thay đổi rất nhiều so với trước, nhiều chủ trương, chính sách được ban hành, sửa đổi để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển. Điều chúng ta cần làm là phải hành động và hành động ngay những giải pháp phù hợp, mỗi doanh nghiệp cũng cần nhận thức được chính bản thân mình, cần làm gì, làm như thế nào để góp phần vào sự phát triển của đất nước. Nhiều doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ như hiện nay là nhờ các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước; các doanh nghiệp hãy đoàn kết, hỗ trợ nhau, đồng hành, ủng hộ các chính sách để có sự phát triển tốt hơn nữa trong thời gian tới.

Bà Trịnh Thị Hương, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể
Báo cáo đánh giá các doanh nghiệp tư nhân lớn nhất ở Việt Nam (VPE500) do NIEF) thực hiện cùng với sự tài trợ của Viện Konrad-Adenaeur-Stiftung Vietnam (KAS) tại Việt Nam. Báo cáo lần đầu tiên về VPE500 được công bố năm 2022, trong đó sử dụng thông tin Tổng điều tra Doanh nghiệp (DN) trong khoảng thời gian từ 2016-2019. Báo cáo năm 2023 tập trung phân tích biến động của VPE500 trong giai đoạn 2021-2022 khi nền kinh tế gặp cú sốc Covid-19.
Báo cáo lần này tập trung biến động của VPE500 trong giai đoạn 2022-2023, nền kinh tế đang phục hồi và tiến tới một giai đoạn tăng trưởng cao. Câu hỏi đặt ra là các DN VPE500 đã có những thay đổi như thế nào trong bối cảnh đó và mối quan hệ với các khu vực còn lại của nền kinh tế? Để Báo cáo có được tính so sánh với hai báo cáo trước, Báo cáo này giữ nguyên phương pháp xếp hạng. Theo đó, xác định VPE500 dựa trên ba tiêu chí: quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu gộp. Thứ hạng VPE500 là trung bình cộng thứ hạng theo lao động, tổng nguồn vốn và doanh thu thuần. Cách xếp hạng này khác với các xếp hạng của báo cáo hiện nay của Việt Nam (VNR500) hoặc của Fortune500 hoặc Top 500 của Trung Quốc, trong đó chỉ sử dụng từng chỉ số riêng lẻ.

Các chuyên gia thảo luận tại Hội thảo
Báo cáo này cũng không tập trung vào mục đích xếp hạng, mà tập trung nhiền hơn vào phân tích kết quả hoạt động và liên kết, tác động của nhóm doanh nghiệp VPE500.
Báo cáo dựa vào số liệu điều tra DN năm 2019-2023 (điều tra năm 2020-2024) của Cục Thống kê để lập danh mục VPE500. Tương tự như Báo cáo VPE500 năm 2022 và 2023, Báo cáo này có một số phần chung như phân bố của VPE500, đóng góp và kết quả hoạt động của VPE500. Báo cáo cũng tiếp tục xem xét tác động chèn lấn về đầu tư, doanh thu và lan tỏa năng suất của VPE500 với các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) còn lại. Ngoài ra, Báo cáo còn trình bày kết quả tổng quan về kinh nghiệm nước ngoài trong thúc đẩy doanh nghiệp lớn phát triển và vươn ra toàn cầu. Phân bố và biến động của danh mục VPE500.
Tại thời điểm 31/12/2023, Việt Nam có trên 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có 940 ngàn doanh nghiệp có báo cáo kết quả SXKD. DNTN trong nước, chiếm 97% số doanh nghiệp, thu hút 57,78% số lao động, chiếm 50,67% vốn và tạo ra 52,56% doanh thu thuần của khu vực doanh nghiệp.
So sánh với Báo cáo VPE500 năm 2023, có biến động khá lớn về số doanh nghiệp ra vào trong danh sách VPE500. Khoảng 17% (85 doanh nghiệp) VPE500 của Báo cáo năm 2023 đã không còn tồn tại trong danh mục của Báo cáo VPE2025. Mặc dù vậy, tỷ lệ này đã giảm đi so với các năm trước đó do tình hình SXKD sau Covid - 19 đã phục hồi dần. Giai đoạn 2021–2023, tỷ lệ doanh nghiệp rời danh mục tăng từ 24,7% lên 27,2%. Đây là thời kỳ thanh lọc mạnh mẽ khi nhiều doanh nghiệp chịu cú sốc từ đại dịch, chi phí vốn tăng, và nhu cầu tiêu dùng suy giảm. So với giai đoạn 2020–2021, số doanh nghiệp “chỉ xuất hiện 1 năm” giảm mạnh (83 → 33) cho thấy quá trình sàng lọc và ổn định sau đại dịch. Tuy nhiên, con số tăng trở lại năm 2024 (58 DN) phản ánh sự mở rộng cạnh tranh khi nhiều doanh nghiệp mới nổi (đặc biệt trong công nghệ, năng lượng tái tạo, logistics) đạt quy mô doanh thu đủ lớn để vào bảng, dù chưa duy trì được ổn định lâu dài.
Đây là những doanh nghiệp đang tăng trưởng nhanh, có thể trở thành lớp kế cận trong 1-2 năm tới nếu duy trì được quy mô và hiệu quả tài chính. Theo ngành, số lượng VPE500 trong ngành chế biến chế tạo đã giảm đi so với trước giai đoạn COVID19, từ 236 còn 207 doanh nghiệp. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đã tăng từ 37 DN lên 52 DN, phản ánh bước trưởng thành của hạ tầng tài chính tư nhân Việt Nam, do quá trình đa dạng hóa mô hình kinh doanh tài chính. Ngành thương mại tăng từ 72 lên 90. Ngành bất động sản chứng kiến sự gia tăng mạnh, từ 22 lên 40 doanh nghiệp. Điều này cho thấy những ngành tăng trưởng nhanh thời gian qua vẫn tập trung nhiều vào lĩnh vực dịch vụ, tài sản. Các ngành sản xuất thu hẹp.
Theo địa bàn, không có sự thay đổi nhiều trong phân bổ không gian. Các VPE500 chủ yếu vẫn tập trung vào hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM (chiếm trên 60% số DN). Ngoài ra còn khoảng trên 10 tỉnh có số lượng VPE500 dao động trong khoảng từ 5 đến trên 10 doanh nghiệp. Rất nhiều tỉnh chỉ có 1 doanh nhiệp thuộc VPE500. Kết quả hoạt động và đóng góp của VPE500.
Mặc dù chỉ có 500 doanh nghiệp (chiếm khoảng 0.05% tổng số), VPE500 đang đóng góp đáng kể vào khu vực doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng. VPE500 đóng góp 11,83% doanh thu, 17,41% nguồn vốn, và 5,86% tổng lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Đáng chú ý là tỷ lệ này có dấu hiệu gia tăng kể từ 2020. Với riêng khu vực DNTN, VPE500 đang chiếm tỷ lệ khá lớn. Về lao động, đang chiếm khoảng 10%, về doanh thu đang chiếm khoảng 22%, trong khi đó về vốn chiếm tới 34% và có xu hướng tăng. Cho thấy mức độ tập trung khá cao và tốc độ tăng vốn đầu tư của VPE500 là khá ấn tượng, thể hiện kỳ vọng của khu vực DN lớn vào tăng trưởng kinh tế thời gian tới, đồng thời cũng thể hiện sự chống chịu 2 khá tốt của doanh nghiệp lớn so với doanh nghiệp nhỏ. Về doanh thu, với một số ngành cụ thể, VPE500 đang chiếm tới 50% trong ngành ngân hàng, 47% với ngành bất động sản, và trong chế biến chế tạo là khoảng 13%.
Phát biểu kết luận Hội thảo, TS. Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính cho rằng, những báo cáo và chia sẻ của các chuyên gia tại Hội thảo là nguồn giữ liệu, luận cứ quan trọng để Viện tiếp tục hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu phát triển 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam, hướng tới các tập đoàn tư nhân mạnh mang tầm toàn cầu, qua đó góp phần tư vấn chính sách cho Bộ Tài chính và Chính phủ trong giai đoạn 2030 - 2035.
Thanh Xuân